Bishop Robert Barron - Courtesy of DeChant-Hughes Public Relations
America
Magazine’ s Survey of Women in the Church
Bài của Đức Giám Mục Robert Barron.
Nguyên bản tiếng Anh đăng trong báo điện tử Norwest Catholic ngày
23 tháng 2, 2018
Vào tháng trước, báo America Magazine công bố một bản thăm
dò hào hứng về thái độ của phụ nữ trong giáo hội. Họ khá tử tế nên đã đăng bài đáp
ứng của tôi về cuộc thăm dò này. Tuy vậy tôi cũng muốn dùng bài báo này để đưa
ra câu trả lời đầy đủ hơn về những điều mà họ đã tìm được.
Một trong những kết luận đáng lo ngại của cuộc thăm dò là
càng ngày càng nhiều phụ nữ rút ra khỏi đời sống giáo hội. Chính ban biên tập cũng
nhận xét đây không phải là điều tốt cho công cuộc rao giảng tin mừng, vì từ xưa
phụ nữ đã đóng một vai trò then chốt trong việc truyền bá đức tin. Tôi hết mình
đồng ý. Nhà thần học Hans Urs von Balthasar đưa ra ý kiến nổi tiếng cho rằng đức
tin và ý thức về bản ngã của chính Chúa Giêsu (về phương diện nhân tính của ngài)
đã được khơi dậy nhờ nụ cười của mẹ và nhờ câu truyện về lịch sử Israel do mẹ kể
lại. Tôi luôn coi đây là một biểu tượng về sự đóng góp không thể thiếu được của
các bà mẹ trong việc học đạo của con cái. Tuy thế tôi cũng lo ngại không kém về
sự thi hành đức tin suy giảm quá nhiều của các ông, bởi vì hết nghiên cứu này đến
nghiên cứu khác đều cho thấy sự trung thành của các bậc cha, ông đã có ảnh hưởng
rõ ràng là không tương xứng trong việc phát triển đức tin của trẻ em, nam cũng
như nữ.
Một kết luận thứ hai của cuộc thăm dò là giáo hội phải cố
gắng hơn nữa để tiếp đón những cha mẹ không hôn thú, những người ly dị, những bà
góa và những người độc thân. Một lần nữa, tôi hoàn toàn đồng ý. Tôi rất sùng mộ
kiểu mẫu giáo dân của các phong trào Công Giáo Cải Tạo Xã Hội (Catholic Action)
rất thịnh hành trong thời kỳ trước công đồng Vatican II nhưng đã mai một trong
thời gian 40 hay 50 năm qua. Theo đường hướng của Catholic Action, chúng ta phải
quy tụ những người có hoàn cảnh, kinh nghiệm và đào tạo giống nhau và dạy họ phương
pháp “xem xét, phán đoán và hành động (see, judge and act). Vâng, các giáo xứ có
thể quy tụ lại những bà mẹ độc thân, các bà góa v.v…và mời gọi họ nhìn vào đời
mình dưới ánh sáng Phúc Âm và quyết định cần phải làm gì trên cơ sở đó. Quả thật
điều thường thấy quá nhiều là đời sống giáo xứ hầu như chỉ xoay quanh những điều
quan tâm và quyền lợi của những người kết hôn và gia đình họ, không cần biết đến
những người khác. Tình trạng này có thể và cần phải thay đổi.
Một kết luận thứ ba của cuộc thăm dò mà tôi phải công nhận
là khó hiểu. Chỉ có 18%
các phụ nữ được hỏi cảm thấy mình tích cực góp phần quan trọng trong các quyết định.
Bây giờ tôi mới hiểu đầy đủ rằng với cấu trúc dựa trên đẳng cấp của giáo hội,
quyết định sau cùng trong mọi việc thuộc về cha sở hay đức giám mục. Tuy nhiên
theo kinh nghiệm của tôi tại hai tổng giáo phận chính là Chicago và Los Angeles
các phụ nữ tham dự rất nhiều vào việc quyết định các vần đề. Nhân viên giáo xứ
và các nhóm lãnh đạo chủ yếu là phụ nữ và thành phần đại diện phụ nữ càng ngày
càng gia tăng trong các văn phòng cha sở và các trung tâm mục vụ. Và đây không
phải chỉ là ý kiến chủ quan của tôi. Tôi còn nhớ rõ một cuộc nghiên cứu của nhà
thần học Catherine LaCugna đã xuất hiện trước đây 25 năm cũng trong nguyệt san
America. Bà báo cáo rằng 80%
các giảng viên giáo lý và những người đỡ đầu dự tòng là phụ nữ, 75% các trưởng nhóm học Kinh Thánh và các
người tham dự là phụ nữ, 80%
những người tham dự các nhóm cầu nguyện là phụ nữ, và 70% những người hoạt động tích cực trong
các chương trình canh tân giáo xứ là các bà. Tôi không thể không phỏng đoán rằng
những con số này chỉ có gia tăng trong một tư thế kỷ vừa qua. Và xin lưu ý, tôi
nhiệt liệt hoan nghênh sự phát triển này, một sự phát triển như vậy chỉ làm cho
đời sống giáo xứ thêm phong phú.
Một kết luận thích thú của cuộc thăm dò là hầu hết các phụ
nữ Công Giáo đều coi việc chăm lo cho người nghèo và Thánh Thể là hai yếu tố
thiết yếu của đời sống Công Giáo. Vâng, Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã nói giáo
hội có ba nhiệm vụ thiết yếu: thờ phượng Chúa, rao giảng tin mừng và chăm lo
cho người nghèo. Cho nên câu trả lời đầu tiên của tôi về con số thống kê này là
“có được hai trong ba (điều cần thiết) cũng là tốt rồi. Thánh Thể là tâm điểm của
việc thờ phượng, là nguồn mạch và cực đỉnh của đời sống Công Giáo,” phục vụ người
nghèo là bổn phận luân lý xuất phát trực tiếp từ nhiệm vụ thờ phượng. Tuy nhiên
quả thật tôi lo rằng các phụ nữ được hỏi ý kiến dường như không đặt rao giảng
Phúc Âm trên một tầm quan trọng tương đương, nhất là ngày nay, khi mà quá nhiều
người đang trôi dạt về phía những người “không theo đạo nào”. Tôi cũng nhận thấy
có sự bất tương đồng về tri thức. Một đàng thì có một số đông phụ nữ nói rằng
Thánh Thể là đặc điểm của người Công Giáo, ấy thế mà 75 phần trăm các phụ nữ bỏ
dự Lễ một cách thường xuyên. Các bậc lãnh đạo trong công đồng Vatican II muốn có
sự tham dự vào phụng vụ một cách đầy đủ, có ý thức và năng động”. Cuộc thăm dò
này đã xác nhận điều mà hàng ngàn cuộc thăm dò khác trong năm thập niên qua đã
cho thấy chúng ta còn xa, rất xa mục tiêu thể hiện được ý nguyện đó của công đồng.
Tôi phải nói rằng điều làm tôi vừa ngạc nhiên vừa phấn khởi
rất nhiều là người ta đã khám phá ra 90% các phụ nữ được hỏi ý kiến nói rằng họ
không cảm thấy có sự kỳ thị phụ nữ trong giáo hội Công Giáo. Hiển nhiên là bất
cứ sự kỳ thị giới tính nào, vào bất cứ lúc nào cũng là điều xấu, nhưng tôi tự hỏi
có tổ chức nào có thể đưa ra những con số tốt đẹp như thế này chăng. Liệu có được
90% phụ nữ trong giới doanh nghiệp, trong ngành điện ảnh, trong chính quyền,
hay trong ngành giáo dục nói rằng họ không bao giờ cảm thấy bị kỳ thị giới tính?
Thành thật mà nói, tôi nghĩ là không. Tôi cho rằng những con số này cho thấy, mặc
dù chúng ta còn phải làm nhiều việc để chấn chỉnh các vấn đề kỳ thị phụ nữ và
coi rẻ phụ nữ trong giáo hội, quả thật chúng ta đã tiến những bước thật xa.
Vũ Vượng dịch