Photo: M. Laughlin
Seattle
Archbishop Emeritus Raymond G Hunthausen Dies
(Bản
tin của Northwest Catholic, nguyên bản tiếng Anh đăng trong báo điện tử
Northwest Catholic ngày 23 tháng 7, năm 2018, nói về cuộc đời vẻ vang nhưng nhiều
sóng gió của một vị tổng giám mục Seattle. Nổi bật là lòng tha thiết với hòa bình
và công bằng xã hội của ngài, với những đường lối đấu tranh táo bạo quyết liệt
đến nỗi sự nghiệp đồ sộ đã bất ngờ kết thúc, buồn nhiều hơn vui)
Đức Tổng
Giám Mục Raymond G Hunthousen, lãnh đạo tổng giáo phận Seattle từ 1975 đến khi
hồi hưu năm1991, đã từ trần ngày 22 tháng 7 tại nhà ở Helena, Montana ở giữa
gia đình thân thuộc.
Ngài thọ
96 tuổi. Khi nghe tin ngài mất, Đức Tổng Giám Mục J Peter Sartain đã ca ngợi: “Đức
Tổng Giám Mục Hunthousen là một tôi tớ khiêm nhường và mộ mến của Chúa, một người
thiết tha với hòa bình. Là những người kế nhiệm của ngài, các đức tổng giám mục
Murphy, Brunett và tôi đều được hưởng những lợi ích của tài lãnh đạo mục vụ, sự
phát triển phong trào giáo dân tham gia lãnh đạo, nhiều chương trình đến với người
nghèo, và nhiều chương trình khác của ngài, là những gì đã làm cho tổng giáo phận
này thành một nơi tấp nập rộn rã. Trên hết, ngài yêu mến Thiên Chúa và điều ấy
nổi bật trong những khi tôi được nói chuyện với ngài, một tôi tớ mộ mến thiết
tha của Chúa. Nguyện cầu cho ngài được nghỉ yên.”
Đức Tổng
Giám Mục Hunthousen là vị giám mục Hoa Kỳ sống lâu nhất trong số các giám mục
Hoa Kỳ tham dự cả bốn khoá họp của Công Đồng Vatican II (1962-1965). Từ 1962 đến
1975 ngài là giám mục của Giáo Phận Helena, Montana và từ 1975 đến 1991, là tổng
giám mục của Seattle.
Raymond
Gerhardt Hunthousen là con của ông bà Anthony và Edna Hunthousen ở Anaconda,
Montana, ra đời ngày 21 tháng 8, 1921 là con lớn nhất trong bảy người con. Ngài
tốt nghiệp trường Carroll College với một văn bằng về hóa học ở Helena vào mùa
xuân năm 1943, học làm linh mục ở Chủng Viện St. Edward Seminary ở Kenmore, được
thụ phong linh mục của Giáo Phận Helena tại Nhà Thờ St Paul ở Anaconda ngày 1
tháng 6 năm 1946 bởi Đức Giám Mục Joseph Gilmore.
Sau khi
thu phong, ngài bắt đầu giảng dạy tại Carroll College và trong các mùa hè theo
học các khóa hậu đại học về hoá học tại Notre Dame University, Fordham
University, Catholic University of America và St Louis University. Ngoài các
nhiệm vụ giảng dạy, ngài trở thành giám đốc thể thao của Carroll College, làm
huấn luyện viên football, bóng rổ, bóng chày, điền kinh và hầu hết các môn thể
thao khác. Các đội của ngài chiếm được nhiều giải vô địch và năm 1966 ngài được
ghi tên vào Sảnh Đường Danh Nhân (Hall of Fame) của Hiệp Hội Thể Thao Liên Đại
Học Quốc Gia (National Association of Intercollegiate Athletics). Ngài là thành
viên duy nhất của hàng giáo phẩm Hoa Kỳ được tặng danh dự này. Ngài là viện trưởng
trường đại học Carroll College từ 1957 đến 1962. Carroll College đã tôn vinh ngài
bằng cách lấy tên ngài đặt cho trung tâm thể thao và sinh viên mới vào năm
2017.
Vào tháng
Bảy năm 1962, ngài được Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII bổ nhiệm làm giám mục giáo
phận Helena và được tấn phong tại nhà thờ chính tòa Helena ngày 30 tháng 8,
1962. Một phần quan trọng của bốn năm đầu của đời giám mục của ngài là tham dự
Công Đồng Vatican II ờ La Mã. Đức tổng giám mục luôn luôn nói công đồng này là
nơi vừa làm vừa học để làm giám mục của ngài. Trong những năm làm giám mục
Helena ngài nổi tiếng vì hăng say thi hành những huấn thị của Công Đồng và đặc
biệt tha thiết với sứ mạng việc hiệp nhất các giáo hội Chúa Kitô, phụng vụ và hợp
tác mục vụ. Ngài bắt đầu tổ chức những trại hè thanh niên tại Legendary Lodge và
thành lập một phái bộ truyền giáo của giáo phận tại Guatemala. Ngài là một
trong những giám mục Hoa Kỳ đầu tiên đã làm việc này.
Năm
1975 Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã bổn nhiệm ngài làm Tổng Giám Mục Seattle, tại đây
ngài được tấn phong ngày 22 tháng 5 năm ấy. Nổi tiếng vì gắn bó với các vần đề
hòa bình và công lý, sự lãnh đạo của Đức Tổng Giám Mục Hunthousen nhấn mạnh chăm
sóc mục vụ tốt đẹp cho giáo dân trong tổng giáo phận, đặc biệt nhấn mạnh huấn
luyện và trang bị cho giáo dân nam nữ tham gia mục vụ. Năm 1980, ngài viết một
thư mục vụ mô tả những bước tiến mà giáo hội cần phải làm để đánh giá cao những
tài năng của phụ nữ ngang hàng với nam giới. Người ta tin đó là lần đầu tiên có
một giám mục Hoa Kỳ làm việc này. Ngài tha thiết với đường lối chia sẻ trách
nhiệm và kết hợp mọi người đã đưa tổng giáo phận vào một kỷ nguyên mới với những
bước tiến táo bạo về sứ mạng hợp nhất các giáo hội Chúa Kitô và chủ trương đa văn
hóa. Dưới sự hướng dẫn của ngài năm 1988, tổng giáo phận Seattle trở thành một
trong các giáo phận đầu tiên trong nước đã thi hành chính sách chấn chỉnh nạn lạm
dục tình dục trẻ con bởi các linh mục và nhân viên làm việc của nhà thờ.
Lòng
ham chuộng hòa bình của ngài nổi tiếng khắp thế giới khi ngài phản đối sự lan
tràn của vũ khí nguyên tử, kể cả việc đặt căn cứ tàu ngầm trang bị hỏa tiễn
Triden tại vùng Puget Sound. Ngài xác tín vào tính vô luân của việc củng cố vũ
khí hạt nhân đến nỗi ngài đã giữ lại một nữa thuế lợi tức của ngài năm 1982. Không
lâu sau đó, năm 1983, Vatican đã gửi một phái bộ tòa thánh đến thăm để xem xét
chương trình mục vụ của đức tổng giám mục, kể cả một số những lề lối mục vụ và
lập trường công ích của ngài. Cuộc viếng thăm ấy thật khó khăn và có sự bất đồng
ý kiến, nhưng cũng làm nổi bật lòng tín thác không lay chuyển nơi Chúa, đời sống
cầu nguyện và tinh thần tận hiến cho giáo hội của ngài. Khi cuộc viếng thăm kết
thúc năm 1987, ngài hoan nghênh việc bổ nhiệm Đức Tổng Giám Mục Thomas J.
Murphy làm giám mục phó của ngài.
Được tôn
trọng vì là một người lớn tiếng bênh vực người nghèo và người sống ngoài lề xã
hội, Đức Tổng Giám Mục Hunthousen cũng là người bênh vực mạnh mẽ cho phụ nữ và
vai trò của phụ nữ trong giáo hội và ngoài xã hội, cũng như các nữ tu. Ngài tha
thiết với sứ mạng hiệp nhất các giáo hội Chúa Kitô của giáo hội đến nỗi nhiều
giáo sĩ của các hệ phái khác gọi ngài là
giám mục của họ. Luôn luôn nổi tiếng vì sống gần gũi quần chúng, đức Tổng Giám Mục Hunthousen ít
chú trọng đến những danh hiệu và ràng buộc của chức vụ, luôn luôn thích hòa mình
vào quần chúng như một người trong quần chúng, một vị lãnh đạo thân dân.
Bất kể
những nhiệm vụ nặng nề của một giám mục trong giáo hội, đức tổng giám mục luôn
duy trì sự liên hệ gần gũi và thân tình với gia đình. Ở giữa những anh chị em,
những cháu trai, cháu gái, chắt trai và chắt gái, ngài thường được gọi bằng cái
tên thân mật là “Bác Hòa Lan” (ngài là người gốc Hoà Lan). Những thời gian sung
sướng nhất của ngài là khi được ở bên họ trong những cuộc họp mặt gia đình,
trong đó người ta thường nhờ đến ngài khi cần biết tên ai trong số mấy chục người
trong họ, kể cả những cháu bé nhất. Là một nhà thể thao có năng khiếu tự nhiên
và yêu đời sống ngoài trời, đức tổng giám mục ưa chuộng các môn trượt tuyết, đánh
golf, đi bộ việt dã, câu cá hay nghỉ ngơi với gia đình, bạn bè trong căn nhà gỗ
thô sơ của ngài trên sườn núi ở vùng Moose Lake.
Ít lâu
sau khi về hưu năm 1991, ngài quyết định sống với gia đình ở Montana càng ngày
càng nhiều hơn. Dù thế, ngài vẫn tiếp tục phụ giúp cho các giáo xứ và rất nhiều
nơi tìm đến để xin ngài hướng dẫn tĩnh tâm và giải tội. Trong nhiều năm cuối đời
ngài sống trong một cơ sở an dưỡng tại Helena, cùng với người em là Cha Jack
Hunthousen, tại đây các ngài cử hành Thánh Lễ hàng ngày và đón tiếp những dòng
người đến thăm đều đặn, gồm thân nhân và bạn bè. Quan tâm sâu sắc đến giáo hội
và sứ mạng của giáo hội cho đến cùng, ngài đặc biệt vui mừng khi Đức Giáo Hoàng
Phanxicô được bàu lên năm 2013, một vị giáo hoàng có nhãn quan và những mục tiêu
ưu tiên phản ảnh quan điểm của ngài về nhiều phương diện.
Đức tổng
giám mục có nhiều thân nhân đã qua đời trước ngài, gồm có cha là Anthony G.
Hunthousen, em trai Art Hunthousen, em gái Marie Walsh. Ngoài ra nhiều khác cũng
đã qua đời trườc là các em dâu Donna Kane Hunthousen, Harriet Hunthousen, hai em
rể Pat Walsh và John Stergar, các cháu trai Pat Walsh, Ed Walsh, Jack Walsh và
Ray G Hunthousen và chắt trai Patrick Walsh Kelly. Ngài còn để lại hai người em
trai là Tony và Cha Jack, cả hai cùng ở Helena, hai em gái là Sơ Edna thuộc dòng
nữ tu Bác Ái ở Leavenworth và Jean Stergar ở Anaconda, 34 cháu gái và cháu
trai, 101 chắt gái và trai và 64 chút gái và trai.
Các tổ
chức tang lễ ở Helena và Seattle chưa được công bố. Thay vì các vòng hoa, tiền đóng
góp xin gửi về Quỹ Hunthousen Fund ở Helena tại cơ quan Good Samaritan
Ministries và Quỹ Hunthousen Fund ở nhà thờ chính toà St. James ở Seattle
Vũ Vượng
dịch