Pope John Paul II greets Soviet leader Mikhail Gorbachev at the Vatican Nov. 18, 1990. Gorbachev, who died Aug. 30, 2022, in Moscow after a long illness, met several times with Pope John Paul, and the two often exchanged words of appreciation for each other. (CNS photo/Luciano Mellace, Reuters)
Gorbachev, St. John Paul had great appreciation for each other
AUG 31, 2022US/WORLD
Nguyên bản tiếng Anh của Catholic News Service được đăng
lại trên nguyệt san điện tử Northwest Catholic của Tổng Giáo Phận Seattle. Đối với nhiều người Công Giáo Việt Nam cũng
như trên toàn thể thế giới, những diễn biến xảy ra ở Liên Bang Sô-Viết và các
nước cộng sản Đông Âu vào cuối của thế kỷ XX là những diễn biến hết sức bất ngờ
và vô cùng kỳ diệu, khó có thể giải thích thỏa đáng nếu không tin rằng
lời tiên báo của Đức Mẹ hiện ra ở Fatima năm 1917: “Nước Nga sẽ trở
lại,” đã được ứng nghiệm.
VATICAN CITY (CNS) —Nguyên lãnh tụ liên bang Sô Viết Mikhail
Gorbachev, đã chết ngày 30 tháng 8 ở Moscow (Mạc Tư Khoa) sau một cơn bệnh lâu
dài. Có nhiều lần ông đã gặp Thánh Giáo Hoàng Gioan-Phaolo II và hai người
thường trao đổi những lời ngưỡng mộ đối với nhau.
Hai nhà lãnh đạo đã gặp gỡ
năm 1989 rồi lại gặp nhau năm 1990, khi Ô Gorbachev còn là chủ tịch Liên Bang
Sôviet và đang thực hiện những cải cách về kinh tế và chính trị tại đất nước
ông, cũng như họ đã gặp nhau vào nhiều dịp khác. Cả hai đã đóng vai trò chủ
chốt trong vụ phá sập bức tường Bá Linh, và Gorbachev đã đoạt giải Nobel Hòa
Bình năm 1990 nhờ những nỗ lực này của ông.
Joaquin Navarro-Valls, người
đã phục vụ trong nhiệm vụ phát ngôn của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo II và
thường tường thuật các cuộc gặp gỡ của hai vị, về sau này đã gọi Gorbachev là
nhân vật quan trọng nhất trong việc phá bỏ bức tường Bá Linh.
Nhân dịp kỷ niệm 20 năm ngày
phá sập bức tường này, trong một bài báo xuất bản ngày 5 tháng 11, 2009 trong
nhật báo La Repubblica, Navarro-Valls đã nói lên việc Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo ủng hộ công đoàn Đoàn Kết là biến cố chủ chốt trong phong trào ủng hộ dân chủ tại
vùng này. Nhưng ông nói Gorbachev đã thấy trào lưu chính trị ở Đông Âu hợp lòng
dân và không thể ngăn chận được, nên nhà lãnh đạo Sô-Viết đã tránh dùng quân
đội để đàn áp, thậm chí cũng không phản đối bằng lời nói.
Navarro-Valls nói khi
Gorbachev gặp Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo lần đầu
vào tháng 12, 1989, chưa đầy một tháng sau khi bức tường bị phá sập, hai nhà
lãnh đạo hiểu ý nhau ngay lập tức.
“Cả hai vị đều hiểu chiều
hướng của lịch sử lúc ấy. Cả hai cảm
thấy tự do không phải là một thực tế chính trị nhưng là một chiều hướng của con
người tối cần thiết và không thể bị đàn áp,” Navarro-Valls nói thế.
Một biên bản của buổi họp
năm 1989 cho thấy Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo và Gorbachev đã biểu lộ đồng
tình mạnh mẽ về nhu cầu phải có nhiều tự do tôn giáo hơn ở Liên Bang Sô Viết và
sự đổi mới các giá trị luân lý và đạo đức, và cải thiện các liên hệ giữa đạo
Công Giáo và Chính Thống Giáo.
Hai nhà lãnh đạo cũng đồng ý
rằng trong thời đại biến chuyển lớn tại Đông Âu, không nên trông đợi vùng này
chỉ đơn thuần nhập cảng những giá trị văn hóa Tây Phương một cách ồ ạt.
“Nếu ai đó quả quyết rằng
những thay đổ ở Châu Âu và trên thế giới phải theo kiểu mẫu Tây Phương thì
người ấy đã lầm rồi. Điều này đi ngược lại với niềm tin sâu xa của tôi,” vị
giáo hoàng thời ấy nói vậy.
“Châu Âu, trong khi tham gia
vào lịch sử thế giới, phải thở bằng hai lá phổi,” vị giáo hoàng nói thêm, dùng
một trong những kiểu ám tỷ ưa thích của ngài để chỉ sự hòa hợp giữa Đông và Tây
trên lục địa này.
“Đó là một hình ảnh rất thích hợp,” Gorbachev
trả lời.
Giáo Hoàng Gioan Phaolo thúc đẩy Gorbachev về khả năng trao đổi đại diện ngoại
giao giữa Vatican và Liên Bang Sô Viết mà ngài cảm thấy là điều sẽ giúp giải
quyết những vấn đề tự do tôn giáo và nhiều vấn đề khác. Gorbachev trả lời đồng
thuận, nhưng nói rằng “chúng tôi chấp nhận một đường lối như thế” nhưng cảnh
giác không nên hành động quá nhanh.
Trong năm tiếp theo cuộc hội
kiến với đức giáo hoàng, Gorbachev đã theo đuổi tiến hành nhiều vấn đề mà đức
giáo hoàng đã nêu lên: Liên Sô đã làm một đạo luật bảo vệ tự do tôn giáo, cho
phép Giáo Hội Công Giáo Ukraine được ra hoạt động công khai, và tiếp đón một
đại sứ Vatican tới Moscow.
Sau khi Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo chết năm 2005,
Gorbachev gọi ngài là “một con người có tư tưởng nhân bản số 1 trên hành tinh.”
Gorbachev, 91 tuổi, trước kia đã là Tổng Thư Ký đảng cộng
sản Liên Bang Sô Viết , từ 1985 đến 1991, và Chủ Tịch Nhà Nước Sô Viết 1990-1991.
Vào thời kỳ cao điểm của nó, Khối Sô Viết bao gồm 15 nước ở miền Đông và miền
Trung Châu Âu, và trong hầu hết các nước này, đạo Công Giáo bị đàn áp.
Nhưng năm 1988, Gorbachev tiếp đón một phái đoàn cao cấp
của giáo hội đến Moscow để dự lễ kỷ niệm
một ngàn năm của đạo Thiên Chúa tại đó. Đầu năm 1989 người ta thấy hàng giáo
phẩm của nước Lithuania được tái lập, nhà thờ chính tòa Vilnius trở lại sinh
hoạt và một tổng giám mục của Lithuania bị quản thúc tại nhà được trả tự do.
Trong thời kỳ đó, quốc vụ khanh tòa thánh (thủ tướng) là
Đức Hồng Y Agostino Casaroli, đã tóm tắt tầm quan trọng của Gorbachev đối với
giáo hội như sau: “Chúng tôi lúc nào cũng sẵn sàng đối thoại. Nhưng thiếu một
người đối tác. Bây giờ đã có người đối tác rồi.”
Dưới quyền lãnh đạo của Gorbachev vào năm 1990. Liên Bang
Sô-Viết đã thông qua một đạo luật tự do tôn giáo, đảo ngược lại mấy chục năm siết chặt các
nhà thờ, trong đó giảng dạy về tôn giáo và tự do lập hội bị hạn chế. Luật ấy
cũng hợp pháp hóa Giáo Hội Công Giáo Ukraine gồm 5 triệu thành viên và phục hồi
một số các nhà thờ và tài sản khác của họ.
Nhiều giám mục được phong chức tại các nước Cộng Hòa Sô-Viết mà
không có sự can thiệp của chính phủ. Chính phủ đã gửi thư mời đức giáo hoàng
qua thăm – nhưng cuộc viếng thăm này đã không xảy ra – và nhiều lời tuyên bố về
chính sách của các nhà chức trách Sô-Viết cho thấy có sự nhìn nhận ngày càng
gia tăng rằng tôn giáo tiêu biểu cho sức mạnh của văn hóa.
Vũ Vượng dịch